Showing posts with label Mỹ. Show all posts
Showing posts with label Mỹ. Show all posts

28.5.11

Hải quân Mỹ chế tạo siêu vũ khí

Theo Đô đốc hải quân Mỹ Gary Roughead, binh chủng của ông sẽ được trang bị đại bác laser có thể làm chảy thép trong vài giây, tàu tuần tra dưới nước hoạt động liên tục 60-70 ngày, tàu ngầm và trực thăng chiến đấu không người lái… trong vài năm tới.


Đại bác laser có thể đánh chặn tên lửa hoặc bắn hạ máy bay
trong chớp mắt Ảnh: Dvice.


Ông Roughead đã chỉ đạo các nhà khoa học công tác tại Phòng Nghiên cứu Hải quân của Hải quân Mỹ nghiên cứu sâu về công nghệ laser để chế tạo ra súng đại bác bắn đạn năng lượng điện từ với tốc độ nhanh gấp 5 lần tốc độ âm thanh (trong không khí khô ở nhiệt độ 20 độ C, vận tốc âm thanh là 343,2 m/s, tương đương 1.236 km/h), làm nóng chảy lớp thép dày trong vòng vài giây. Các nhà khoa học nói rằng, đến năm 2020, tàu chiến Mỹ có thể được trang bị đại bác laser có năng lượng ở mức kilowatt, thậm chí megawatt.

Theo ông Roughead, việc phát triển đại bác laser cho tàu chiến, đặc biệt là hàng không mẫu hạm trị giá hàng tỉ USD, rất hữu ích vì tàu có thể đến gần bờ biển hoặc tàu đối phương mà không bị tên lửa địch bắn hạ. Đại bác laser chỉ cần gắn vào máy phát điện của tàu, không phải nạp đạn nên dễ dàng đánh chặn tên lửa đang bay tới.

Tập đoàn Công nghiệp và Khoa học Hàng không Vũ trụ Trung Quốc mới đây thông báo kế hoạch hoàn thành việc chuyển giao tên lửa thế hệ mới có tầm bắn 4.000 km cho quân đội Trung Quốc trong năm 2015. Loại tên lửa này có thể tiêu diệt từ xa mục tiêu trên đất liền, trên không, trên biển, trong đó có tàu sân bay.

Về máy bay không người lái, Hải quân Mỹ coi trọng nhất loại máy bay chiến đấu X47B bay thử hồi tháng 2 và có thể được sử dụng rộng rãi từ năm 2018. X47B có thể hạ cánh, cất cánh từ tàu sân bay. “Không gì khiến tôi phấn khích hơn loại máy bay không người lái này”, Đô đốc Roughead nói.

Ngoài ra, BAMS, một loại máy bay giám sát tầm xa, sẽ phục vụ Hải quân Mỹ từ năm 2015. Fire Scout, loại trực thăng không người lái tương tự của Mỹ, có nhiều bộ cảm biến cũng như camera đã được sử dụng để theo dõi những kẻ buôn lậu ma túy ở châu Mỹ Latin và mới đây hoạt động trên chiến trường Afghanistan.


Hải quân Mỹ đang phát triển tàu ngầm không người lái Manta
để thu thập thông tin tình báo Ảnh: Xray Mag.


Về tàu ngầm, ông Roughead nói rằng, Hải quân Mỹ nên có loại tàu hoạt động dưới nước trong vòng 60-70 ngày, được phóng đi từ tàu chiến đấu ven biển hoặc tàu khu trục, bơi khoảng 13.000 km mà không phải quay lại tàu mẹ. Loại tàu ngầm không người lái này được lắp nhiều loại vũ khí hoặc bộ cảm biến, có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, rà phá thủy lôi, tấn công tàu có người lái của đối phương…

Tàu ngầm không người lái của Hải quân Mỹ hiện nay chủ yếu được dùng để gỡ thủy lôi và hoạt động trong cự ly ngắn (tối đa 222 km). Columbia Group, một nhà thầu quốc phòng Mỹ, đã thử nghiệm một số tàu ngầm không người lái, nhưng hệ thống đẩy và năng lượng của chúng chưa đáp ứng mong muốn của Đô đốc Roughead.


Thái An
(theo Wired, Global Times - báo Tiền Phong)

9.5.11

Nguy cơ "hạ cánh" của F-35 Lightning II

Khác với những tính toán ban đầu, chiếc máy bay tiêm kích đa năng F-35 Lightning II ngày càng đòi hỏi chi phí nhiều hơn. Đây là thông tin mới nhất mà phía Mỹ vừa đưa ra.

Tổng chi phí tăng

Chiếc F-35 Lightning II được Mỹ thiết kế với quan điểm là nó phải có giá thành và giá bán rẻ hơn so với chiếc tiêm kích thế hệ thứ 5 là F-22 Raptor. Tuy thế, theo thời gian, F-35 ngày càng đòi hỏi chi phí tài chính nhiều hơn. Theo đánh giá mới nhất của Bộ Quốc phòng Mỹ, để vận hành 2.443 chiếc F-35 trong vòng 30 năm cần đến 1.000 tỉ USD.

Đánh giá nêu trên được nhóm nghiên cứu độc lập thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ tiến hành và gửi cho Quốc hội Mỹ ngày 15.4.2011. Các nhà phân tích đã đưa ra bảng so sánh chi phí vận hành loại F-35 cùng các loại tiêm kích khác như F-16 Fighting Falcon, F/A-18 Hornet và AV-8B Harrier. 1.000 tỉ USD chỉ là chi phí vận hành, còn để mua 2.443 chiếc F-35 còn phải chi 382 tỉ USD nữa.



F-35 Lightning II - Ảnh: Reuters


Theo các nhà phân tích của Bộ Quốc phòng Mỹ, mỗi chiếc F-35 có thể thực hiện 8.000 giờ bay. Với mỗi binh chủng như không quân, hải quân, thủy quân lục chiến đều có thiết kế riêng chiếc F-35 cho phù hợp với yêu cầu. Dự kiến chiếc tiêm kích cuối cùng loại này sẽ được bàn giao cho quân đội vào năm 2035.

Bên cạnh đó, không lực và hải quân Mỹ đang dự kiến vào năm 2016 sẽ tiếp nhận những chiếc F-35 đầu tiên. Như vậy là sớm hơn 2 năm trước khi hoàn tất việc thiết kế, thử nghiệm và chính thức sản xuất hàng loạt F-35. Điều này đồng nghĩa với thời hạn vận hành chiếc F-35 sẽ là từ năm 2016 đến năm 2046. Trong năm nay, cơ sở quân sự Eglin, bang Florida sẽ tiếp nhận 20 chiếc F-35 và như vậy đến năm 2040 những chiếc tiêm kích này sẽ đến thời hạn "nghỉ hưu".

Một trong những nguyên nhân khiến chi phí tài chính của chiếc F-35 cao theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ là do trong quá trình vận hành nó có một số chi tiết mau hư hỏng hơn các loại tiêm kích khác. Ngoài ra, chi phí một giờ bay cũng cao hơn. Nhưng tại sao một chiếc tiêm kích hiện đại như thế lại thường xuyên hư hỏng hơn loại tiêm kích cũ, lạc hậu hơn như F-16 hay AV-8B thì phía Mỹ không giải thích. Giá một giờ bay cũng không được thông báo cụ thể.

Theo lời Phó đô đốc David Venlet, lãnh đạo chương trình F-35, Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ giảm chi phí thiết kế, sản xuất và vận hành chiếc tiêm kích này. Bên cạnh đó, David Venlet nhấn mạnh, đánh giá 1.000 tỉ USD nêu trên chưa chính xác và chưa phải là con số cuối cùng. Bởi, F-35 chưa hoàn tất giai đoạn thử nghiệm nên tính toán chi phí một giờ bay là chưa thể. Ngoài ra, thiết kế của nó thường có những thay đổi nhỏ nên dự báo tuổi thọ các linh kiện cũng không chính xác. Cần nhắc lại rằng, vào năm 2009, thời gian vận hành F-35 trong 30 năm khi đó tính toán chỉ mất 915 tỉ USD.

Chi phí vận hành tăng

Hiện chi phí vận hành chiếc F-35 cả Bộ Quốc phòng, cả Quốc hội Mỹ chưa chính thức khẳng định. Con số 1.000 tỉ USD là do hãng Bloomberg dẫn nguồn tin từ báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ. Bên cạnh đó, vào ngày 22.4.2011 trong cuộc tọa đàm với Phó đô đốc David Venlet, các nguồn thông tin lại đưa ra chi phí vận hành F-35 không giống với đánh giá của Bộ Quốc phòng và Cục Thanh tra (GAO) Mỹ. Theo website Flightglobal, chi phí vận hành là 442 tỉ USD vào năm 2002 (549,04 tỉ vào năm 2011). Trang web này khẳng định đây là con số mà ông David Venlet đưa ra ngày 22.4.2011. Như vậy nếu tính cả 382 tỉ USD để mua 2.443 chiếc F-35 và 56 tỉ chi phí thiết kế thì tổng chi phí sẽ là 987 tỉ USD cho toàn bộ chương trình.

Về phía mình, hãng Reuters tham dự cuộc tọa đàm cho rằng, chi phí vận hành F-35 là 443 tỉ USD (nhưng không nói rõ đó là tính theo năm nào). Tựu trung cả Bloomberg, Flightglobal và Reuters đều có những tính toán sai lệch ở một điểm nào đó.

Trước đó, vào tháng 5.2009, GAO đánh giá chi phí mua 2.456 chiếc F-35 (không phải 2.443 chiếc như Bộ Quốc phòng Mỹ dự kiến) tiêu tốn 300 tỉ USD. Còn chi phí vận hành (kể cả bảo dưỡng, thay thế phụ tùng, nâng cấp) là 760 tỉ USD. Giờ đây chi phí mua F-35 đã tăng từ 300 lên 382 tỉ USD và như thế các chi phí khác cũng sẽ tăng.

Lãnh đạo không quân thuộc hạm đội Mỹ cho biết con số cụ thể hơn. Chẳng hạn một giờ bay của F-35 là 30,7 nghìn USD (một giờ bay của F/A-18 hay AV-8B xấp xỉ 19 nghìn USD). Như vậy, nếu mỗi chiếc F-35 thực hiện 8.000 giờ bay thì chi phí vận hành cho 2.443 chiếc F-35 sẽ là 600 tỉ USD. Còn nếu tính cả bảo dưỡng, nâng cấp, số tiền sẽ tăng vào khoảng 800 - 900 tỉ USD.

Giá bán tăng

Chương trình F-35 bắt đầu khởi động vào năm 1996 dưới tên gọi Joint Strike Fighter (JSF), nhưng chỉ thực sự tiến hành vào năm 2001 khi mà hãng Lockheed Martin ký hợp đồng với Bộ Quốc phòng Mỹ. F-35 dự kiến sẽ thay thế cho các loại tiêm kích đang lạc hậu là F-16, A-10 Thunderbolt II, F/A-18 Hornet (không tính Super Hornet) và AV-8B. Và được kỳ vọng sẽ rẻ hơn chương trình F-22 Raptor.

Theo đánh giá của GAO, toàn bộ chương trình thiết kế và mua F-22 chỉ là 77,4 tỉ USD (giá một chiếc F-22 vào năm 2010 là 411,7 triệu USD). Không lực Mỹ đã nhận 166/187 chiếc F-22 đặt hàng. Số còn lại sẽ được hoàn tất trong vòng vài năm tới. Vào tháng 7.2009, lãnh đạo không lực Mỹ thông báo, một giờ bay của F-22 tiêu tốn 44 nghìn USD. Cũng vào thời điểm này, GAO cho biết giá F-35 là 115,5 triệu USD/chiếc (năm 2008 là 101,7 triệu USD). Với chi phí ngày một tăng cao, GAO dự báo vào năm 2016, trung bình giá bán của 1 chiếc F-35 sẽ là 142,5 triệu USD. Cụ thể: không lực Mỹ mua loại F-35A với giá 121,4 triệu USD, hải quân Mỹ - loại F-35C với giá 145 triệu USD/chiếc, còn thủy quân lục chiến loại F-35B với giá 161 triệu USD/chiếc.

Dù vậy, vài chuyên gia quân sự Mỹ cho rằng, giá bán F-35 rất có thể giống trường hợp chiếc F-22. Chiếc F-22 lúc đầu bán với giá 150 triệu USD/chiếc, nhưng đến năm 2010 đã là 411,7 triệu USD/chiếc. Đó là chưa kể chiếc F-35 hiện có nhiều điểm cần khắc phục, luôn chậm trễ, không thực hiện đúng lịch trình thử nghiệm. Nếu như các sự cố luôn xảy ra và kéo dài, thì rất có thể chương trình F-35 sẽ bị đóng lại vào năm 2013.

---

Bộ Quốc phòng Mỹ đến nay vẫn chưa đưa ra chính xác tiến độ sản xuất loại F-35 vì thời hạn liên tục bị kéo dài. Theo số liệu hiện có, đến năm 2016, dự kiến quân đội Mỹ sẽ nhận bàn giao 325/2.443 chiếc đặt mua. Về lý thuyết, nếu như việc sản xuất F-35 bắt đầu từ năm 2018 và hoàn tất vào năm 2035, trung bình mỗi năm Mỹ cần sản xuất 124 chiếc.


Ngữ Tử Yên
(Báo Thanh Niên Tuần san)

“Siêu chiến binh” đặc nhiệm

Các thành viên SEAL Đội sáu - Ảnh: US Navy

Vụ tiêu diệt Osama bin Laden cho thấy các lực lượng tinh nhuệ với khả năng hành động chớp nhoáng là “tài sản” quý giá của quân đội nhiều nước.

Sau chiến dịch đột kích tiêu diệt Osama bin Laden, người ta mới biết Mỹ đang sở hữu ít nhất một đơn vị biệt kích vô cùng bí mật, chuyên thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Đó chính là Đội sáu (Team Six), tên chính thức là Lực lượng Phát triển chiến tranh đặc biệt của Hải quân Mỹ (DevGru), đơn vị chọn lọc nhất của đặc nhiệm SEAL. Đây được xem là một trong những lực lượng tác chiến đặc biệt mạnh nhất và thần bí nhất thế giới.

Tinh nhuệ của tinh nhuệ

Đến nay, giới chức Mỹ vẫn một mực chẳng hé răng gì về SEAL Đội sáu, giống như họ vẫn thường làm trước đây. Hôm 6.5, Tổng thống Barack Obama đã gặp và khen ngợi những thành viên của chiến dịch tiêu diệt bin Laden, nhưng cuộc gặp diễn ra trong phòng kín và đến nay giới truyền thông vẫn chưa tìm được tên tuổi các “siêu chiến binh” này.

Thiếu tướng lính thủy đánh bộ Richard Mills thì không hề ngạc nhiên về chiến công mới nhất của Đội sáu. “SEAL Team Six là độc nhất vô nhị”, tờ Stars and Stripes dẫn lời tướng Mills nói.

Thực tế, Đội sáu ra đời từ một thất bại bẽ bàng trong lịch sử tình báo và quân đội Mỹ. Năm 1980, Mỹ thất bại trong chiến dịch Vuốt đại bàng nhằm giải cứu các nhà ngoại giao Mỹ bị bắt giữ làm con tin ở Iran. Kết quả là 2 máy bay bị bắn rơi, 8 lính Mỹ và một thường dân Iran thiệt mạng. Sau vụ này, Washington quyết định thành lập một đội đặc nhiệm tinh nhuệ, chuyên thực hiện các sứ mệnh cực kỳ bí mật, giảm khả năng thất bại xuống mức thấp nhất. “Bắt đầu với 75 tay súng, chi phí huấn luyện, đạn dược dành cho Đội sáu còn hơn cả toàn bộ lực lượng lính thủy đánh bộ lúc đó”, Tư lệnh đầu tiên của Đội sáu là Richard Marcinko kể với Reuters.

Ông Marcinko còn tiết lộ cái tên Đội sáu được chọn để đánh lừa các kẻ thù của Mỹ rằng Mỹ có nhiều đội biệt kích tinh nhuệ. Theo ước tính của nhiều hãng truyền thông, số thành viên của Đội sáu vào khoảng 200 - 300 người. Họ được chọn lọc cẩn thận từ những thành viên có năng lực nhất của lực lượng lớn hơn là SEAL, vốn có khoảng 2.300 người. Biệt kích SEAL phải trải qua ít nhất 5 năm huấn luyện mới được quyền đăng ký tham gia thi tuyển vào Đội sáu.

Dù sở hữu những kỹ năng hơn người, hầu hết thành viên SEAL đều không chịu nổi quá trình huấn luyện gian khổ trước khi chính thức được công nhận là thành viên của Đội sáu. Đại úy Kenneth Klothe, Trưởng khoa môn Chiến tranh bất thường tại Đại học Quân sự quốc gia ở Washington, cho hay sức ép về tâm lý còn dữ dội hơn so với áp lực lên thân thể và là yếu tố quyết định để một người có thể vào Đội sáu hay không. AFP dẫn lời đại úy Klothe cho hay cao lắm chỉ khoảng 1/3 số lính đăng ký hoàn tất được quá trình khổ luyện.

Các lực lượng đặc nhiệm khác

SEAL của hải quân không phải là lực lượng đặc biệt duy nhất của quân đội Mỹ. Trước đây, khi nói đến lực lượng đặc nhiệm, người ta thường nhắc đến cái tên Delta Force của Lục quân. Nhờ vào chiến công diệt được Osama bin Laden, SEAL Đội sáu đột nhiên nổi trội hẳn so với Delta Force. Sự khác biệt giữa 2 đơn vị này là về mặt lý thuyết, SEAL tiến hành những chiến dịch trên biển, trong khi Delta Force chịu trách nhiệm về các sứ mệnh trên bộ. Tuy nhiên, việc Tổng thống Obama chọn SEAL Đội sáu để tiêu diệt bin Laden cho thấy ranh giới giữa các đơn vị đặc nhiệm của Mỹ có thể bị xóa nhòa.

Bên cạnh SEAL, Delta Force, một số đơn vị đặc nhiệm của Mỹ còn có Lực lượng Mũ nồi xanh và Trung đoàn biệt động quân 75 của Lục quân; các Sư dù 82 và 101 của Không quân; Marine Force Recon của Lính thủy đánh bộ…

Một số chiến dịch của Đội sáu

Chiến dịch Vì công lý (1989): Cùng sát cánh với Delta Force và các đơn vị đặc nhiệm khác, thành viên của Đội sáu tham gia bắt sống nhà độc tài Manuel Noriega khi Mỹ tấn công Panama vào tháng 12.1989.

Chiến dịch Cây thương lục (1990): SEAL Đội sáu quay lại Panama để tham gia vào chiến dịch bí mật nhằm bắt trùm ma túy Colombia Pablo Escobar. Tuy nhiên, chiến dịch này đã thất bại do sơ suất của khâu tình báo.

Trận chiến Mogadishu (1993): Bốn thành viên Đội sáu tham gia Chiến dịch Mãng xà Gothic, sứ mệnh của LHQ do Mỹ dẫn đầu nhằm truy bắt tướng Mohamed Farrah Aidid của Somalia và các cộng sự vào ngày 3.10.1993. Với sự phối hợp của nhiều đội đặc nhiệm Mỹ, ban đầu đây được cho là một sứ mệnh dễ dàng và ngắn gọn. Tuy nhiên, lực lượng phương Tây lọt vào ổ phục kích của các tay súng Somalia tại thủ đô Mogadishu. Kết quả là 160 lính Mỹ phải chiến đấu với từ 2.000 - 4.000 lính Somalia trong hai ngày 3 - 4.10. Tổng cộng, 19 lính Mỹ thiệt mạng, 84 người bị thương và lần đầu tiên trực thăng Black Hawk bị bắn rơi. Hình ảnh lính Mỹ bị bắt, bị trói và xác họ bị kéo lê trên đường phố trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với quân đội cũng như người dân Mỹ, và Tổng thống Bill Clinton phải ra lệnh rút quân khỏi Somalia. Trận chiến này sau đó được đạo diễn Ridley Scott dựng thành phim Black Hawk Down vào năm 2001.
Thụy Miên
(Báo Thanh Niên, 9.5.2011)

6.5.11

Osama bin Laden và al-Qaeda: Kẻ thù nước Mỹ

Sau vụ khủng bố 11.9.2001, Osama bin Laden trở thành
kẻ thù số 1 của Mỹ - Ảnh: Reuters

Sau một thời gian cùng chống lại Liên Xô, Osama bin Laden và tổ chức al-Qaeda đã trở thành kẻ thù số 1 của nước Mỹ.

Ban đầu, Osama bin Laden và tổ chức thánh chiến của mình có thể nhờ cậy nguồn giúp đỡ từ Mỹ để hoạt động vũ trang chống Liên Xô ở Afghanistan. Tuy nhiên, do sự khác xa về tư tưởng và lập trường, bin Laden không bao giờ coi Mỹ là đồng minh khả tín. Đối với người Mỹ, những tổ chức thánh chiến kiểu như Maktab al-Khidamat cũng không bao giờ là bạn bè. Đó chỉ là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Thế nên, sau khi đối thủ chung là Liên Xô không còn, Osama bin Laden và người Mỹ đã trở thành kẻ thù của nhau.

Trở thành kẻ thù

Al-Qaeda với quy mô là một tổ chức vũ trang Hồi giáo ra đời năm 1988. Và trong thời gian ngắn sau đó, Liên Xô triệt thoái sau 9 năm 50 ngày duy trì sự hiện diện quân sự ở Afghanistan. Mục tiêu của al-Qaeda giờ đây đã thay đổi, chuyển từ chống Liên Xô sang thúc đẩy việc hình thành các nhà nước Hồi giáo.

Sự kiện Tổng thống Saddam Hussein của Iraq xua quân tấn công Kuwait vào tháng 8.1990 và hệ quả là Mỹ can thiệp quân sự vào khu vực có tác động như một cú hích đẩy al-Qaeda vào thế đối đầu với nước này. Khi Iraq chiếm Kuwait, đặt Ả Rập Xê Út vào thế nguy hiểm, bin Laden đã gặp vua Fahd với lời khuyên không nên dựa vào các lực lượng ngoại đạo như Mỹ để đánh Iraq. Bin Laden chống Tổng thống Hussein, nhưng cũng coi viễn cảnh Mỹ can thiệp vào khu vực này là mối đe dọa cho thế giới Hồi giáo. Thay vì dựa vào Mỹ, bin Laden khuyên vua Fahd nên tin tưởng vào các chiến binh Ả Rập thuộc các tổ chức Hồi giáo như al-Qaeda. Vua Fahd khước từ lời đề nghị và sau đó ủng hộ Chiến dịch Bão táp Sa mạc của Mỹ. Và thế là bin Laden bắt đầu các hoạt động chống phương Tây, mà mục tiêu lớn nhất là Mỹ. Mối thù không đội trời chung nảy mầm từ đấy.

Theo hồ sơ của Mỹ, FBI bắt đầu tróc nã các thành viên của al-Qaeda từ năm 1990. Ngày 26.2.1993, tòa tháp Trung tâm Thương mại thế giới (WTC) ở New York bị đánh bom khiến 6 người chết. Giới chức Mỹ sau đó kết luận là một nhóm khủng bố từng được al-Qaeda đào tạo là thủ phạm.

Tấn công đẫm máu

Về phần mình, sau khi không thuyết phục được vua Fahd và nhìn thấy máy bay Mỹ ném bom vùng Vịnh, Osama bin Laden đã quay sang chỉ trích Chính phủ Ả Rập Xê Út, kết quả là bị trục xuất. Năm 1992, bin Laden chạy sang Sudan và thiết lập một cơ sở vũ trang tại đây cũng như bắt tay với nhóm Jihad Ai Cập. Từ nơi ở mới, bin Laden tiếp tục chỉ trích Chính phủ Ả Rập Xê Út và vào năm 1994 đã bị tước quốc tịch cũng như bị gia đình đoạn tuyệt.

Năm 1996, với sự thiết lập chính quyền Taliban ở Afghanistan, bin Laden thấy rằng một quốc gia Hồi giáo đúng nghĩa đã ra đời và y thuê máy bay tới Jalalabad để gặp thủ lĩnh Taliban Mullah Omar. Tới lúc này thì bin Laden đã nhận được sự che chở của cả một nhà nước Hồi giáo. Thủ lĩnh al-Qaeda hoạt động tự do và thậm chí khống chế hãng hàng không Ariana Afghan Airlines để phục vụ cho hoạt động chở vũ khí và binh lính. Theo cuốn Lái buôn tử thần (The Merchant of Death 2007, trang 138-140), nghi can buôn lậu vũ khí người Nga Viktor Bout cũng hợp tác với Taliban và al-Qaeda để điều hành hoạt động chuyên chở vũ khí bằng đường hàng không.

Tháng 2.1998, Osama bin Laden cùng Ayman al-Zawahiri - một bác sĩ phẫu thuật và là thủ lĩnh của Jihad Ai Cập - thành lập tổ chức gọi là Mặt trận Thánh chiến Hồi giáo chống Do Thái và Thập tự chinh. Đây chính là lúc al-Qaeda với một mạng lưới rộng khắp chính thức hình thành. Vào giữa năm đó, bin Laden cùng al-Zawahiri tổ chức Đại hội al-Qaeda - một cuộc tập trung lực lượng của các tổ chức vũ trang Hồi giáo cực đoan toàn cầu. Tới tháng 8.1998, tổ chức của bin Laden chính thức đánh thẳng vào lợi ích của nước Mỹ bằng 2 vụ tấn công vào Đại sứ quán Mỹ ở Tanzania và Kenya. Sau sự kiện này, bin Laden, phó tướng al-Zawahiri và thủ lĩnh quân sự Muhammad Atef của al-Qaeda đã trở thành đối tượng truy nã gắt gao của Mỹ.

Kể từ đó, hầu hết các vụ khủng bố lớn trên thế giới đều được người Mỹ dán mác al-Qaeda. Đến ngày 11.9.2001, thế giới chứng kiến màn tấn công khủng bố ghê rợn nhất lịch sử: 4 chiếc máy bay chở khách bị 19 kẻ không tặc khống chế đã tấn công nước Mỹ, 2 chiếc đâm vào tòa tháp đôi WTC ở New York, 1 chiếc đâm vào Lầu Năm Góc ở Virginia và chiếc thứ tư rơi tại Pennsylvania. Vụ việc khiến 3.000 người chết, 6.000 người bị thương. Từ đó, al-Qaeda và thủ lĩnh bin Laden trở thành kẻ thù số 1 của Mỹ. Trong suốt thập niên vừa qua, sau vụ 11.9, hàng loạt vụ đánh bom lớn khác cũng đã được dán nhãn al-Qaeda, chẳng hạn vụ đánh bom tàu điện ngày 11.3.2004 tại Madrid, Tây Ban Nha, vụ đánh bom ngày 7.7.2005 tại thủ đô nước Anh..., mặc dù trên thực tế có thể một số vụ do các nhóm khủng bố khác thực hiện.


Đỗ Hùng
(Báo Thanh Niên, 7.5.2011)

>> Osama bin Laden và al-Qaeda: Tổ chức thánh chiến
>>
Osama bin Laden và al-Qaeda: Nơi khởi nguồn của một dòng họ

5.5.11

Osama bin Laden và al-Qaeda: Tổ chức thánh chiến

Rời bỏ cuộc sống của một quý tử, Osama bin Laden đã tới Pakistan để tham gia lực lượng thánh chiến chống Liên Xô, với sự ủng hộ của Mỹ.

Ông Mohamed có ít nhất 54 người con, Salem là con trai đầu, người trở thành chủ nhân của Tập đoàn Bin Laden sau khi cha mình qua đời vì tai nạn trực thăng năm 1967.

Osama bin Laden là con của bà Hamida al-Attas, vợ thứ 10 của ông Mohamed. Bà Hamida sinh Osama vào năm 1957, khi mới 15 tuổi và sau đó ít lâu đã ly dị ông Mohamed.


Osama bin Laden trong thời gian tham gia hoạt động
vũ trang ở Nam Á - Ảnh: AFP


Đường đến Pakistan

Các tài liệu phổ biến cho biết thuở nhỏ Osama là tín đồ Wahhabi, một nhánh Hồi giáo dòng Sunni. Tư tưởng người con trai của Mohamed trong giai đoạn đầu chưa bộc lộ xu hướng cực đoan. Tuy nhiên, những diễn biến vào cuối thập niên 1970 và đầu 1980 đã có tác động sâu sắc tới Osama. Đó là giai đoạn Liên Xô đưa quân vào Afghanistan năm 1979 và duy trì sự hiện diện ở đó. Lúc bấy giờ, ở tuổi ngoài 20, Osama đã tới Pakistan để tham gia các tổ chức thánh chiến Hồi giáo chống Liên Xô. Cuộc gặp gỡ với giáo sĩ Abdullah Yusuf Azzam vào giai đoạn này đối với Osama như cá gặp nước. Với tầm ảnh hưởng trong các tổ chức vũ trang Hồi giáo, Azzam đã nhanh chóng thuyết phục bin Laden tham gia sâu hơn vào các hoạt động thánh chiến liên quan tới chiến trường Afghanistan. Đây chính là lúc mà mạng lưới al-Qaeda manh nha.

Ban đầu, bin Laden và Azzam thành lập tổ chức Maktab al-Khidamat, chịu trách nhiệm quyên góp tài chính, vũ khí và huy động nhân sự từ khắp thế giới Hồi giáo và Ả Rập để chi viện cho thánh chiến quân ở Afghanistan. Đây cũng là lúc Chiến dịch Bão xoáy do Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) triển khai đang ở giai đoạn cao trào. Chiến dịch này có nhiệm vụ tương tự như công việc mà Osama và Azzam đang thực hiện, đó là tuồn tiền và vũ khí cho các thủ lĩnh chống Liên Xô ở Afghanistan. Hai lực lượng vốn khác xa nhau về ý thức hệ, tôn giáo - tức là thuộc hai nền văn minh khác nhau - đã gặp nhau ở một điểm: họ có chung đối thủ.

Tuy nhiên, các tư liệu được công bố tới nay cho thấy vào thời điểm 1984, Osama bin Laden dường như chưa có liên hệ trực tiếp với Mỹ. Có thể có những nguồn tiền xuất phát từ Mỹ và Ả Rập Xê Út được rót cho tổ chức của Osama, nhưng một cái bắt tay trực tiếp thì chưa. Thế rồi, mọi sự dường như thay đổi sau một chuyến đi của Salem bin Laden, xuất phát từ khu dinh thự ở Florida và điểm đến là thành phố Peshawar của Pakistan, cách không xa biên giới với Afghanistan.

Trong cứ địa Peshawar

Cuối năm 1984, khi đang ở Mỹ, Salem mua sắm nhiều vật dụng để chuẩn bị tới Pakistan. Ông ta chất rất nhiều thứ vào các kiện hàng lớn, rồi chuyển tới bang Nam Carolina, từ đây, một công ty tàu biển có liên hệ với gia đình bin Laden chở hàng về UAE, sau đó tới Karachi ở Pakistan.

Bản thân Salem bay sang Đức, sau đó tới Anh, rồi qua Áo trước khi về Ả Rập Xê Út có quá cảnh ở Cairo, Ai Cập. Lúc ở Áo, Salem có gặp trùm buôn lậu vũ khí Adnan Khashoggi. Sau khi nghỉ ngơi một thời gian tại Ả Rập Xê Út, một ngày đầu hè 1985, Salem cùng 2 người bạn Mỹ, một kỹ sư hàng không Thụy Điển và tổ lái lên một chiếc máy bay Mitsubishi MU-2 để bay tới Karachi. Tại cảng Karachi, Salem nhận các kiện hàng lớn rồi sau đó chuyển lên thành phố Peshawar. Không ai biết ông ta chở cái gì, nhưng không loại trừ đó là vũ khí.

“Salem nói rằng Osama đang ở đấy và ông ấy là người trung gian giữa Chính phủ Mỹ, Ả Rập Xê Út và các lực lượng vũ trang ở Afghanistan”, người bạn Mỹ George Harrington sau này kể lại với tác giả Steve Coll (trong sách: Bin Laden: một gia đình Ả Rập trong thế kỷ Mỹ, 2008).

“Họ tiếp tục bay và sau đó đáp xuống một phi đạo đầy bụi ở Peshawar, mà Harrington không biết đấy là đường băng hay một con lộ thông thường”, tác giả Coll viết. Harrington kể lại ấn tượng đầu tiên về Osama: “Tôi thấy hắn ta cao hơn Salem rất nhiều (trên 1m9). Lúc bấy giờ hắn chừng 27 tuổi”. Sau khi gặp nhau, Salem và Osama nói chuyện bằng tiếng Ả Rập trong chừng hai tiếng đồng hồ. Tiếp đó, Osama dẫn anh trai mình và các vị khách tới thăm trại tị nạn và những nơi các tay súng thánh chiến ẩn náu. Salem dùng một chiếc máy quay phim nhỏ ghi lại hoạt động của Osama.

Sau chuyến đi, Salem đã trở về Ả Rập Xê Út và sau đó có thể đã tháp tùng Vua Fahd tới thăm Washington vào cuối năm 1985. Theo tác giả Coll, có thể đoạn phim quay các hoạt động của Osama ở miền biên giới Pakistan - Afghanistan đã được chuyển cho Tổng thống Ronald Reagan, để thuyết phục ông này tăng cường hỗ trợ các tổ chức vũ trang chống Liên Xô.

Hoạt động của Osama bin Laden trong tổ chức Maktab al-Khidamat chấm dứt vào năm 1988, khi có bất đồng với giáo sĩ Azzam, và al-Qaeda đã ra đời ngay lúc ấy. Đây cũng là năm mà Salem thiệt mạng khi đang lái một chiếc máy bay nhỏ ở Mỹ.

Sau sự ra đời của al-Qaeda, xu hướng cực đoan của Osama càng phát triển cao hơn khi Mỹ xua quân tới vùng Vịnh vào năm 1990 và sau đó là sự hình thành chính quyền Taliban ở Afghanistan vào năm 1996.


Đỗ Hùng
(Báo Thanh Niên, 6.5.2011)


>> Osama bin Laden và al-Qaeda: Nơi khởi nguồn của một dòng họ

Hình mô tả những giây phút cuối của bin Laden

4.5.11

Osama bin Laden và al-Qaeda: Nơi khởi nguồn của một dòng họ

Osama bin Laden cùng một số thành viên trong gia đình
bin Laden và người dân ở thành phố Falun trong chuyến
thăm Thụy Điển năm 1971 - Ảnh: The Sun

Là thành viên của một trong những gia đình giàu có nhất Ả Rập Xê Út và từng có quan hệ với Mỹ, Osama bin Laden đã thành lập tổ chức khủng bố al-Qaeda để chống lại Mỹ và các đồng minh. Thanh Niên xin giới thiệu loạt tư liệu nhiều kỳ về dòng họ bin Laden và Osama bin Laden từ khi còn là một cậu bé tới lúc trở thành kẻ thù số 1 của Mỹ và cuối cùng bị bắn chết.

Làng Gharn Bashireih nằm trong thung lũng Wadi Rakiyah ở vùng Hadhramawt (miền trung Yemen ngày nay) là nơi dòng họ bin Laden thuộc bộ tộc Kendah hùng mạnh sống từ hàng trăm năm trước. Đến giữa thế kỷ 19, bộ tộc Kendah suy yếu và khoảng 500 thành viên dòng họ bin Laden sống rải rác trong một vùng đất rộng lớn ở Wadi Rakiyah.

Thuở cơ hàn

Câu chuyện về gia đình trực hệ của Osama bin Laden bắt đầu vào nửa cuối thế kỷ 19. Sau khi làm chết một con bò cày mượn từ địa chủ, Awadh Aboud bin Laden - ông nội của Osama - đã bỏ làng, tới định cư ở thung lũng Wadi Doan cũng thuộc vùng Hadhramawt. Awadh chết sớm nhưng cũng kịp sinh 3 con trai và 3 con gái, trong đó người con trưởng là Mohamed, tức cha của Osama bin Laden sau này.

Theo cuốn Bin Laden: Một gia đình Ả Rập trong thế kỷ Mỹ (The Bin Ladens: An Arabian Family in the American Century của Steve Coll, xuất bản năm 2008), Mohamed sinh năm 1905. Khi chưa đầy 12 tuổi, Mohamed đã bôn ba qua tận Ethiopia để lao động trong những công trường xây dựng và lò gạch. Một tai nạn trên công trường (có tài liệu nói là bị chủ đánh) đã cướp đi một con mắt của Mohamed từ thời niên thiếu.

Thương tật từ thuở nhỏ, nhưng Mohamed vẫn tiếp tục đi tìm cơ hội vươn lên. Năm 1925, chàng trai 20 tuổi lại rời làng để tới thành phố cảng Jeddah bên bờ Hồng Hải. Tại đây, gã thanh niên vô gia cư đã nhìn thấy cơ hội làm giàu từ các dòng người cập thuyền vào Jeddah để đến thánh địa Mecca. Sau thời gian bán hoa quả, Mohamed đã lập một đội thầu xây dựng nho nhỏ. Nhưng rồi, cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1930 đã khiến Mohamed trắng tay. Ông bèn rời Jeddah để tiến sang miền trung và miền đông bán đảo Ả Rập.

Năm 1932, vua Abdul-Aziz bin Saud sáp nhập 2 vương quốc Hejaz và Nejd để lập nên Ả Rập Xê Út với quy mô như ngày nay. Giai đoạn này, người Mỹ cũng bắt đầu quan tâm tới tiềm năng dầu lửa của quốc gia nằm trên bán đảo Ả Rập. Đấy cũng là lúc cơ hội đến với Mohamed, để từ đó ông ta lập nên tập đoàn Bin Laden khổng lồ.

Trỗi dậy nhờ người Mỹ

Giai đoạn sau Thế chiến 1 và trước Thế chiến 2, các công ty Mỹ bắt đầu sục sạo khắp Trung Đông tìm nguồn dầu lửa và kết quả là Công ty SOCAL đã đàm phán với vua Abdul-Aziz để thành lập Liên doanh dầu lửa Ả Rập - Mỹ (ARAMCO). Vua Abdul-Aziz, lúc bấy giờ rất cần tiền để mua sắm xe cộ cũng như xây dựng cung điện, đã chấp nhận sự tham gia của người Mỹ để đổi lấy một khoản tiền khá lớn.

Khi Mohamed rời Jeddah đến Dhahran ở bờ biển miền đông, nằm bên vịnh Persia, cũng là lúc ARAMCO bắt đầu xây dựng các cơ sở khai thác. Mohamed xin vào làm một chân phụ hồ, và chỉ sau vài tháng đã thăng tiến lên chức quản đốc. Năm 1935, Mohamed rời ARAMCO để lập doanh nghiệp riêng.

Lúc bấy giờ, các hoàng thân Ả Rập Xê Út đang đua nhau xây dựng đền đài, cung điện. Và với kinh nghiệm của mình, Mohamed nhanh chóng giành về nhiều hợp đồng xây dựng cũng như thiết lập quan hệ vững chắc với hoàng gia, đặc biệt là với vua Abdul-Aziz và Abdullah Suleiman - Bộ trưởng Tài chính và là nhân vật quyền lực số 2 tại nước này.

Tới Thế chiến 2, Mỹ nhận thấy tầm quan trọng của Ả Rập Xê Út liên quan tới dầu lửa. Tháng 2.1945, Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt mời vua Abdul-Aziz lên chiến hạm USS Quincy ở Hồng Hải, đánh dấu quan hệ chính thức giữa hai quốc gia. Thế chiến 2 kết thúc, xuất khẩu dầu lửa tăng cao và quan hệ Mỹ - Ả Rập Xê Út càng được mở rộng. Cùng với nó là sự phất lên của Mohamed bin Laden và sau này là những quan hệ giữa tập đoàn Bin Laden với Mỹ.

Cho đến khi Mohamed chết vì tai nạn máy bay vào năm 1967, ông đã có cơ ngơi cả tỉ USD. Sau đó, người con trai trưởng Salem bin Laden tiếp nối vị trí đứng đầu tập đoàn. Salem tiếp tục duy trì quan hệ mật thiết với giới hoàng thân quốc thích Ả Rập Xê Út, kể cả vua Fahd, và có thể đã đóng vai trò quan trọng trong nguồn tiền và vũ khí mà Mỹ và Ả Rập Xê Út rót cho tổ chức của Osama bin Laden thời thập niên 1980 để chống lại Liên Xô ở Afghanistan.

Salem có một khu dinh thự lớn ở thành phố Orlando thuộc tiểu bang Florida của Mỹ và thường sử dụng nơi này để nghỉ ngơi, hội họp bạn bè. Trước khi chết vì tai nạn máy bay cá nhân trên đất Mỹ vào năm 1988, Salem được cho là từng tháp tùng vua Fahd tới thăm Nhà Trắng thời Tổng thống Ronald Reagan. Lúc bấy giờ, trong cuộc gặp với ngài Fahd, ông Reagan đã nói: “Chúng ta thờ cùng một Thượng đế”, trong mối liên hệ với cuộc chiến tại Afghanistan. Trong cuốn Bin Laden: Một gia đình Ả Rập…, tác giả Coll nhận định rằng lời lẽ của Tổng thống Reagan gợi ý rằng “ông đã xem một đoạn băng của Salem quay lại các hoạt động của Osama bin Laden ở Pakistan”.


Đỗ Hùng
(Báo Thanh Niên, 5.5.2011)

5 sai lầm của Mỹ sau sự kiện bin Laden

Ảnh: AFP

Theo báo Time, cách xử lý thông tin của chính quyền Mỹ trong 48 giờ đồng hồ sau sự kiện tiêu diệt Osama bin Laden đã mắc phải nhiều sai lầm.

Không ai có thể phủ nhận sự kịch tính và chất hành động trong chiến dịch của quân đội Mỹ cũng như khả năng tìm kiếm thông tin đáng nể của các cơ quan tình báo nước này, nhưng Time cho rằng chính quyền cũng đã mắc nhiều sai sót.

1. Không nói thẳng mọi việc. Liệu Bin Laden có vũ trang hay không? Liệu có người phụ nữ nào bị lấy ra làm bia đỡ đạn và đó là ai? Còn những ai bị giết ngoài mục tiêu chính? Thực ra chính quyền Mỹ là nguồn tin duy nhất về sự kiện này trong khoảng 24 giờ đồng hồ sau khi Bin Laden thiệt mạng, nhưng họ đã mắc những sai lầm khó tin. Cái giá phải trả là các phương tiện truyền thông trở nên nghi ngờ những tuyên bố của chính quyền, các đối thủ của Tổng thống Barack Obama thì ngay lập tức tận dụng cơ hội chỉ trích ông.

2. Không hề nhắc đến George W. Bush. Ngay cả khi Nhà Trắng tin rằng người tiền nhiệm của ông Obama không có vai trò gì trong kết cục của Bin Laden, sẽ là tốt hơn nhiều cho đoàn kết quốc gia và cho chính bản thân Obama nếu ông nói vài lời cảm ơn với vị tổng thống thứ 43. Lời mời của ông với Bush đến thăm khu Ground Zero vào ngày thứ Năm (đã bị từ chối) là một ý tưởng đúng đắn, nhưng quá muộn.

3. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về những bức ảnh. Quyết định có công bố những hình ảnh Bin Laden đã thiệt mạng hay không là không dễ dàng. Nhưng những tuyên bố mâu thuẫn nhau của chính quyền đã khiến công luận bực mình.

4. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về cuộc chiến ở Afghanistan. Sự kiện Bin Laden bị những người chỉ trích Obama coi là một trong những cái cớ có thể được chính quyền đưa ra để rút quân khỏi nước này. Một số trợ lý của ông Obama đã bày tỏ điều đó quá sớm và do đó, đưa ra tín hiệu sai lầm cũng như không bảo vệ được chính sách của tổng thống ở đó.

5. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về Pakistan. Yêu cầu của bên lập pháp và giới truyền thông trong nước về sự thay đổi cơ bản trong mối quan hệ Mỹ-Pakistan là rất bức xúc, nhất là khi Bin Laden được phát hiện lẩn trốn ngay trên lãnh thổ nước này, ở một thị trấn tưởng như rất yên bình.


H.Minh
(Báo Tuổi Trẻ, 5.5.2011)

2.5.11

Những dấu mốc hoạt động của Osama bin Laden

Osama bin Muhammad bin Awad bin Laden sinh năm 1957 (không xác định được ngày cụ thể) tại Riyadh, Arập Xêút, là con thứ 17 trong tổng số 52 người con của Muhammad Awad bin Laden, một người Yemen nhập cư, sau này trở thành tỷ phú ngành xây dựng.

Bố của bin Laden có bốn vợ, trong đó có một phụ nữ Syria, và bà này là người sinh ra trùm khủng bố quốc tế sau này.

Ngay từ khi còn trẻ và theo học tại trường Đại học King Abdul Aziz ở Jeddah, bin Laden đã bày tỏ quan điểm Hồi giáo bảo thủ và bắt đầu có xu hướng chuyển sang làm chính trị.

Một trong những người thầy của y, Abdullah Azzam, chính là người sáng lập tổ chức mujahedeen chống lại việc Liên Xô đổ quân vào Afghanistan năm 1979.

Nhờ việc sớm được thừa hưởng một phần gia sản khổng lồ của cha mình (ông này mất năm 1970) mà bin Laden đã trở thành một nhân vật cốt cán phụ trách tài chính trong tổ chức nói trên.

Năm 22 tuổi, y chuyển tới Afghanistan, gia nhập đội ngũ do Mỹ đào tạo để chống lại quân đội Xôviết, và kể từ đây, y chính thức bước vào con đường khủng bố, cho tới khi bị chính người Mỹ tiêu diệt vào ngày 30.4 vừa qua.
(Vietnam+)

Cận cảnh vị trí Osama bin Laden bị quân Mỹ giết


Lâu nay Mỹ tưởng rằng Osama bin Laden lẩn trốn trên khu vực biên giới giữa Pakistan và Afghanistan nên Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ra lệnh tiến hành nhiều vụ tuần tra bằng các máy bay không người lái để truy tìm dấu vết tại đó.

Song rốt cục, trùm khủng bố bị truy nã gắt gao này lại đàng hoàng sống ngay tại thành phố.

Chiến dịch của lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhằm vào bin Laden diễn ra tại một khu nhà ở thị trấn Abbottabad, chỉ cách thủ đô Islamabad của Pakistan khoảng 100km.

"Đây chính là điều mà các quan chức phương Tây lo ngại, rằng ông ta không trốn ở vùng biên giới xa xôi mà ngay tại các thành phố," phóng viên các vấn đề quốc tế Nic Robertson của đài CNN nói.

Abbottabad là nơi có các căn cứ quân đội của Pakistan, và thậm chí có cả một học viện quân sự.
(Vietnam+)

Nỗi sợ hãi của người Mỹ

Nhìn cảnh người dân Mỹ đổ ra đường ăn mừng trong đêm khuya, sau khi Tổng thống nước này thông báo tin lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã giết chết được trùm khủng bố Osama bin Laden, cho thấy, bin Laden thực sự là nỗi ác mộng của người Mỹ. Chưa khi nào có một con người làm cho cả nước Mỹ cảm thấy khó ở, thường trực một mối lo sợ đến vậy. Và giờ đây, khi mà Tổng thống Obama cho biết bin Laden đã bị triệt hạ thì họ như được thở phào nhẹ nhõm...

Tuy nhiên, Al-Qaeda giờ đây đã vượt ra ngoài tầm tay của bin Laden đã từ rất lâu rồi và nguy cơ khủng bố đối với nước Mỹ vẫn thường trực, khi mà trật tự thế giới hãy còn những cực đối lập gay gắt và thế giới đang được người Mỹ cố san phẳng với việc lấy các định chế văn hóa, kinh tế, chính trị của họ làm trung tâm. Ngày nay, "thế giới của người Mỹ" đã không còn được hình dung rõ ràng khi Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, và Nga dần lấy lại uy thế của mình sau hồi kết thúc Chiến tranh Lạnh, nhưng chưa phải là hết khi họ vẫn còn nắm trong tay các công cụ kiểm soát thế giới như các tổ chức quốc tế như LHQ, WB, IMF... và lực lượng quân đội của họ vẫn còn giữ được những ưu thế vượt trội...

Cái chết của bin Laden diễn ra ngay vào điểm này cũng mở ra những thuận lợi lớn cho bước đường chính trị của Obama bước thềm tranh cử vào vị trí ông chủ Nhà Trắng lần thứ hai...

Hãy chờ xem thế giới "hậu bin Laden" sẽ như thế nào, và Mỹ sẽ nhận được những gì tiếp theo?

Osama bin Laden đã bị Mỹ tiêu diệt như thế nào?

Ảnh: Reuters

Mọi chuyện bắt đầu bằng cái tên của một người đưa tin tâm phúc.

Sáng sớm 2.5, các quan chức cấp cao của chính phủ Mỹ cho hay đầu mối dẫn đến Osama bin Laden bắt đầu từ trước sự kiện 11.9, trước khi xảy ra các vụ tấn công khủng bố khiến cho Osama bin Laden trở nên nổi tiếng toàn cầu. Đầu mối này lộ rõ vào mùa thu năm ngoái, khi Mỹ phát hiện ra một khu nhà được xây dựng công phu ở Pakistan.

"Từ khi chúng tôi lần đầu tiên nhận thấy bin Laden là một mối đe dọa, Mỹ đã thu thập thông tin về những người thân cận trong bộ máy của y, kể cả những người đưa tin riêng," một quan chức cấp cao trong chính quyền của Tổng thống Barack Obama tiết lộ sau hậu trường của cuộc thông báo tại Nhà Trắng, nơi ông Obama công bố thông tin trùm khủng bố al-Qaeda bị thiệt mạng.

"Sau các cuộc tấn công khủng bố ngày 11.9.2001, những kẻ bị bắt giữ đã cung cấp thông tin cho chúng tôi về những người đưa tin. Một người đưa tin đặc biệt khiến chúng tôi chú ý. Những kẻ bị bắt cho chúng tôi biết bí danh của y, và cũng xác nhận rằng y là một trong số ít những người đưa tin được bin Laden tin tưởng."

Năm 2007, Mỹ đã biết được tên thật của người đàn ông này.

Theo quan chức kể trên, năm 2009, "chúng tôi xác định được các khu vực ở Pakistan mà người đưa tin này cùng em trai của hắn hoạt động. Chúng vô cùng thận trọng, vì thế càng làm chúng tôi tin tưởng rằng chúng tôi đang đi đúng hướng."

Vào tháng 8.2010, "chúng tôi phát hiện thấy ngôi nhà của chúng ở Abbottabad," tại một khu vực biệt lập. "Khi thấy khu nhà, chúng tôi thực sự thấy sốc vì nó quá độc đáo."

Mảnh đất này rộng gấp 8 lần các ngôi nhà trong khu vực. Nó được xây dựng vào năm 2005 ở ngoại ô thị trấn, khi đó còn khá vắng vẻ, nhưng bây giờ đã xuất hiện một vài ngôi nhà ở gần đó.

"Nhìn bên ngoài đã thấy ngay sự bất thường: ngôi nhà có tường cao tới gần 5m, đương nhiên là kín cổng cao tường và chỉ có hai lối vào được bố trí an ninh chặt chẽ." Những người sống trong khu nhà này đốt sạch mọi thứ rác chứ không đổ đi như các nhà hàng xóm. Cũng không hề có cửa sổ nhìn ra đường. Một phần của khu nhà này có tường dày tới 2m..

Và một điều bất thường nữa đối với một ngôi nhà trị giá nhiều triệu USD: nó tuyệt nhiên không hề có đường dây điện thoại hoặc Internet.

Chính vì thế các nhà phân tích tình báo của Mỹ đi đến kết luận rằng ngôi nhà chắc chắn "được xây dựng đặc biệt để che giấu một nhân vật quan trọng nào đó."

Ngoài hai anh em người đưa tin, Mỹ cũng phát hiện có một gia đình sống ở đó mà số thành viên rất tương đồng với gia đình của bin Laden. Sau đó họ còn có một thông tin quý giá rằng bin Laden đang sống cùng cô vợ trẻ nhất.

Không có bằng chứng nào cụ thể, nhưng mọi điểm dường như trùng khớp: an ninh, thông tin về những người đưa tin tâm phúc, và thiết kế của khu nhà.

"Các nhà phân tích của chúng tôi đã xem xét mọi khía cạnh. Không một kẻ tình nghi nào lại khớp với trường hợp này như bin Laden," một quan chức nói. "Những thông tin thu thập được và phân tích khiến chúng tôi rất tin tưởng rằng trong khu nhà này có một mục tiêu nghi can khủng bố giá trị cao. Rất nhiều khả năng đó là bin Laden."

Thông tin này không được chia sẻ với bất kỳ quốc gia nào khác, và "chỉ một nhóm rất nhỏ trong chính phủ của chúng tôi biết về chiến dịch này," một quan chức tiết lộ.

Vụ tấn công

Chiến dịch diễn ra suôn sẻ trừ một sai sót kỹ thuật nhỏ với một chiếc máy bay trực thăng của Mỹ nhưng tất cả các binh sỹ Mỹ đều thoát khỏi máy bay đó và không ai bị chết.

"Đây là một chiến dịch với một nhóm nhỏ để giảm thiểu thiệt hại. Nhóm của chúng tôi ở trong khu nhà chỉ dưới 40 phút và không hề tiếp xúc với chính quyền địa phương."

Cũng theo quan chức này, "Bin laden bị giết trong cuộc đấu súng."

Khi phóng viên hỏi Osama bin Laden có nổ súng hay không, quan chức này trả lời: "Ông ta đã kháng cự và đã bị bắn chết."

Có 4 nam giới bị chết: bin Laden, con trai ông này, và hai người đưa tin tâm phúc.


(Vietnam+)

Hình mới nhất về cái chết của Osama bin Laden

Xác chết của Osama bin Laden được chụp từ video Express TV

-----------------------------------------


Hình ảnh trên đã được xác định là giả mạo


-----------------------------------------


Tối 1.5, Tổng thống Mỹ Barack Obama thông báo rằng Osama bin Laden, lãnh đạo của tổ chức Al Qaeda gây ra vụ tấn công khủng bố ngày 11.9, bị chết trong một chiến dịch mà ông ra lệnh thực hiện bên trong lãnh thổ Pakistan, kết thúc 10 năm lùng tìm nhân vật bị truy nã gắt gao nhất thế giới này.

Tổng thống Obama cũng xác nhận các quan chức Mỹ đang giữ xác của Osama bin Laden. "Vào những đêm như thế này," Tổng thống Obama nói, "chúng ta có thể nói rằng công lý đã được thực thi."

Bằng chứng rõ nhất về cái chết của bin đó là hình ảnh được phát ngày 2.5 từ video Express TV cho thấy xác chết của trùm khủng bố Osama bin Laden tại Islamabad, Pakistan.

Ngoài Osama bin Laden, con trai của ông ta, 2 người đưa tin tâm phúc và một phụ nữ cũng đã bị thiệt mạng trong chiến dịch này. Hiện chưa rõ về số phận của Ayman al-Zawahiri, nhân vật số 2 của Al Qaeda.

Sau khi thông báo về cái chết của trùm khủng bố bin Laden được Tổng thống Mỹ đưa ra, người dân Mỹ đã không giấu được niềm vui mừng khi tràn ra những khu phố lớn, đặc biệt là quảng trường Thời đại để ăn mừng. Trong khi đó, tại Afghanistan, những binh sỹ Mỹ đóng quân tại đây cũng đã đón nhận thông tin này qua truyền hình.


(Theo Vietnam+)

Hình toàn cảnh vụ tấn công khủng bố 11.9 ở Mỹ