5.5.11

Người Mỹ có lên Mặt trăng thật không?

20% người Mỹ được hỏi không tin rằng, người Mỹ từng lên Mặt trăng và cho rằng đây chỉ là một vụ bịp bợm lớn.



Hình ảnh Amstrong trên Mặt trăng.


Cho đến nay, có lẽ ai cũng đinh ninh rằng, Mỹ đã thắng Liên Xô trong cuộc chạy đua lên Măt trăng. Phi công vũ trụ Neil Amstrong là người đầu tiên đặt chân lên đó.

Từ con tàu bước ra, anh nói một câu nổi tiếng, làm cả thế giới xúc động, rằng, “đây là một bước nhỏ của một con người nhưng là một bước đi khổng lồ của nhân loại”. Mọi sự đều như hết sức rõ ràng.

Nhân ngày Vũ trụ quốc tế, người ta xới lại vấn đề này. Một cuộc thăm dò lại cho thấy ngay trên đất Mỹ, 20% số người được hỏi không tin rằng người Mỹ đã từng đặt chân lên Mặt Trăng. 20% là một tỷ lệ khá cao. Những người này cho rằng chẳng phải Amstrong hay bất cứ ai khác đã đổ bộ lên Mặt trăng, mà đó chỉ là một vụ bịp bợm lớn.

Quả thật khi nghiên cứu các sự kiện trong Chương trình Mặt trăng sẽ phát hiện những vấn đề khó giải thích một cách thuyết phục trong khuôn khổ những giả thuyết quen thuộc về một chuyến bay lên Mặt trăng.

Từ năm 1970, tại Mỹ đã xuất bản cuốn sách của J. Krainy “Có thật con người đã đặt chân lên Mặt Trăng không?”, và năm 1976 nhà văn Mỹ Bill Keysing cũng cho phát hành một cuốn sách tựa đề “Chúng ta chưa bao giờ lên Mặt Trăng”.

Sau đó tại những nước khác nhau trên thế giới những phân tích về vấn đề này được đưa ra ngày càng nhiều với những lý lẽ khó bác bỏ của những người không tin vào những tuyến bố chính thức về thành công của Chương trình Mặt trăng của Mỹ. Trong một bài không thể trình bày tỉ mỉ tất cả mọi lý lẽ người ta đã đưa ra mà chỉ có thể tóm tắt những ý chính.

1. Khi các nhà du hành vũ trụ cắm lá cờ trên Mặt trăng, nó bay phấp phới thật sinh động. Rõ ràng gió thổi khá mạnh. Điều này cực kỳ vô lý. Bởi ai cũng biết rằng trên Mặt trăng không hề có khí quyển. Vậy thì gió ở đâu ra. Đã thế, trên hai tấm ảnh của cùng một lá cờ do NASA công bố, bóng của nó trên một tấm ở bên trái, tấm kia ở bên phải.

2. Luồng khí nóng từ động cơ phun lúc hạ cánh phải thổi rất mạnh, đương nhiên nó sẽ làm tung lên một đám bụi hình phễu ngay lại địa điểm con tàu đỗ xuống. Thế nhưng trên những bức ảnh do NASA công bố không hề thấy hiện tượng này. Bề mặt Mặt trăng vần phẳng lỳ, không một vết lõm.

3. Trong điều kiện trọng lực của Trái đất, nhà du hành cùng bộ quần áo bay của anh ta có khối lượng lên tới 160 kg. Còn theo tính toán, trên Mặt trăng con số đó chỉ còn là 27 kg thôi. Vậy vì sao các nhà du hành không thể hiện các bước nhảy bật rất cao do sức hút của Mặt trăng chưa bằng 1/5 so với Trái đất? Bước nhảy trong video clip không cao quá 45 cm, chẳng khác gì khi đi trên bề mặt địa cầu. Vì sao vậy?

4. Trong các bức ảnh về phong cảnh Mặt trăng, ánh sáng rất không đồng đều. Kiểu ánh sáng như vậy là tính chất điển hình của việc dùng đèn chiếu chứ không phải ánh sáng tự nhiên.

Có một số lý do khác nữa được coi là gián tiếp. Ví dụ, Mỹ tuyên bố đã đưa tàu Apollo lên vũ trụ bằng tên lửa chuyên chở khổng lồ “Saturn-5”. Chỉ 20 năm sau, Liên Xô mới chế tạo được tên lửa nổi tiếng “Energia” có những tính năng về chuyên chở tương tự. Không lẽ Liên Xô vốn đang chiếm ưu thế về tên lửa so với họ, bỗng nhiên bị họ “qua mặt” tới 2 thập kỷ?

Lại nữa, sau khi thực hiện được Chương trình Mặt trăng, vì sao tên lửa “Saturn-5” của họ chỉ được dùng một lần duy nhất - phóng tàu vụ tru “Skylab” vào năm 1973. Loại tên lửa độc đáo đó của Mỹ nếu quả là có thật tại sao họ lại vội vã đình chỉ việc sản xuất ra chúng và 3 chiếc đã chế tạo phải lập tức bị đưa vào Viện bảo tàng?

Điều ngạc nhiên nữa là vì sao học phải dùng một chiếc xe đi trên Mặt trăng to lớn và nặng nề đến vậy, trong khi sức hút của Mặt trăng nhỏ hơn sức hút của Trái đất nhiều lần? Chúng ta hãy nhớ rằng đưa một vật thể vào vũ trụ, người ta phải cân nhắc đến từng gam, vì thêm mỗi một kg có nghĩa là phải bỏ thêm cả một số kinh phí khổng lồ.

Nói chung rất nhiều vấn đề, có đầy đủ cơ sở để nghi ngờ Chương trình Mặt trăng của Mỹ. Có ý kiến khẳng định người Mỹ chưa bao giờ lên Mặt trăng, lại có ý kiến cho là chuyến bay lên Mặt trăng đầu tiên ấy của họ chỉ là bịa đặt, sau đó, thì họ cũng lên được Mặt trăng thực sau này. Loại ý kiến thứ ba lập luận: Mặc dù Chương trình Mặt trăng của Mỹ được phủ vòng nguyệt quế nhưng tuyệt nhiên không xứng đáng. Tất cả những hình ảnh, quay phim đều thực hiện trên Trái đất.


Tên lửa chuyên chở “Saturn-5” (phóng lên tại “Sân bay
vũ trụ”mang tên Kennedy)


Báo Komsomolskaia Pravda đã gặp nhà văn nổi tiếng Andrei Pashev để hỏi về chuyện này, thì ông nói: “Тôi đã từng tham gia vào cuộc tranh luận về chuyến bay lên Mặt trăng của Mỹ. Những ý kiến không tin là người Mỹ đã lên Mặt trăng không phải xuất phát từ Liên Xô trước đây. Người ta lúc đó chỉ dựa trên tính phiêu lưu và không tưởng (với trình độ khoa học lúc đó) của chương trình này”.

“Ví dụ, chính Khrushev đã, tuyên bố, chúng ta sẽ không tham gia vào cuộc chạy đua lên Mặt trăng, vì điều đó vô cùng rủi ro. Trong lịch sử của ngành du hành vũ trụ Xô Viết đã có những trường hợp chỉ vì việc tiếp xúc giữa bộ phận chỉ huy dưới mặt đất và con tàu chỉ trục trặc trong giây phút một con tàu đã lệch ra khỏi quỹ đạo và chuyến bay bị thất bại. Huống hồ xa như Mặt trăng.

Trước những dẫn chứng quá sắc bén trong cuộc tranh cãi về Chương trình Mặt trăng của Mỹ, NASA đã buộc phải đứng ra thừa nhận rằng, để minh họa việc hạ cánh của con tàu Apollo trên Mặt trăng, họ đã phải dùng những clip video và ảnh chụp không liên quan đến chuyến bay thực sự. Một số vấn đề được đưa lên trên các phương tiện truyền thông đúng là những bức ảnh chụp khi luyện tập, sở dĩ họ đưa ra vì nó rất giống với cảnh thực trên Mặt trăng.

Song họ mới đề cập đến sự bịa đặt của các đoạn phim và ảnh chụp. Những vấn đề khác họ chưa giải thích được và cũng không xin lỗi. Một vài chuyên liên quan cũng dần dần lộ ra. Chẳng hạn, chuyện thất lạc những tài liệu khi Apollo hạ cánh.

Lại còn chuyện những viên đá cuội mà các phi hành gia lượm từ bề mặt của Mặt trăng đã đem tặng các bảo tàng châu Âu, được biết NASA cũng đã bị thanh minh là họ “nhầm” với viên đá của Trái đất chứ không có cố ý.


Tuấn Hà
(VietNamNet)

Hình mô tả những giây phút cuối của bin Laden

4.5.11

Osama bin Laden và al-Qaeda: Nơi khởi nguồn của một dòng họ

Osama bin Laden cùng một số thành viên trong gia đình
bin Laden và người dân ở thành phố Falun trong chuyến
thăm Thụy Điển năm 1971 - Ảnh: The Sun

Là thành viên của một trong những gia đình giàu có nhất Ả Rập Xê Út và từng có quan hệ với Mỹ, Osama bin Laden đã thành lập tổ chức khủng bố al-Qaeda để chống lại Mỹ và các đồng minh. Thanh Niên xin giới thiệu loạt tư liệu nhiều kỳ về dòng họ bin Laden và Osama bin Laden từ khi còn là một cậu bé tới lúc trở thành kẻ thù số 1 của Mỹ và cuối cùng bị bắn chết.

Làng Gharn Bashireih nằm trong thung lũng Wadi Rakiyah ở vùng Hadhramawt (miền trung Yemen ngày nay) là nơi dòng họ bin Laden thuộc bộ tộc Kendah hùng mạnh sống từ hàng trăm năm trước. Đến giữa thế kỷ 19, bộ tộc Kendah suy yếu và khoảng 500 thành viên dòng họ bin Laden sống rải rác trong một vùng đất rộng lớn ở Wadi Rakiyah.

Thuở cơ hàn

Câu chuyện về gia đình trực hệ của Osama bin Laden bắt đầu vào nửa cuối thế kỷ 19. Sau khi làm chết một con bò cày mượn từ địa chủ, Awadh Aboud bin Laden - ông nội của Osama - đã bỏ làng, tới định cư ở thung lũng Wadi Doan cũng thuộc vùng Hadhramawt. Awadh chết sớm nhưng cũng kịp sinh 3 con trai và 3 con gái, trong đó người con trưởng là Mohamed, tức cha của Osama bin Laden sau này.

Theo cuốn Bin Laden: Một gia đình Ả Rập trong thế kỷ Mỹ (The Bin Ladens: An Arabian Family in the American Century của Steve Coll, xuất bản năm 2008), Mohamed sinh năm 1905. Khi chưa đầy 12 tuổi, Mohamed đã bôn ba qua tận Ethiopia để lao động trong những công trường xây dựng và lò gạch. Một tai nạn trên công trường (có tài liệu nói là bị chủ đánh) đã cướp đi một con mắt của Mohamed từ thời niên thiếu.

Thương tật từ thuở nhỏ, nhưng Mohamed vẫn tiếp tục đi tìm cơ hội vươn lên. Năm 1925, chàng trai 20 tuổi lại rời làng để tới thành phố cảng Jeddah bên bờ Hồng Hải. Tại đây, gã thanh niên vô gia cư đã nhìn thấy cơ hội làm giàu từ các dòng người cập thuyền vào Jeddah để đến thánh địa Mecca. Sau thời gian bán hoa quả, Mohamed đã lập một đội thầu xây dựng nho nhỏ. Nhưng rồi, cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1930 đã khiến Mohamed trắng tay. Ông bèn rời Jeddah để tiến sang miền trung và miền đông bán đảo Ả Rập.

Năm 1932, vua Abdul-Aziz bin Saud sáp nhập 2 vương quốc Hejaz và Nejd để lập nên Ả Rập Xê Út với quy mô như ngày nay. Giai đoạn này, người Mỹ cũng bắt đầu quan tâm tới tiềm năng dầu lửa của quốc gia nằm trên bán đảo Ả Rập. Đấy cũng là lúc cơ hội đến với Mohamed, để từ đó ông ta lập nên tập đoàn Bin Laden khổng lồ.

Trỗi dậy nhờ người Mỹ

Giai đoạn sau Thế chiến 1 và trước Thế chiến 2, các công ty Mỹ bắt đầu sục sạo khắp Trung Đông tìm nguồn dầu lửa và kết quả là Công ty SOCAL đã đàm phán với vua Abdul-Aziz để thành lập Liên doanh dầu lửa Ả Rập - Mỹ (ARAMCO). Vua Abdul-Aziz, lúc bấy giờ rất cần tiền để mua sắm xe cộ cũng như xây dựng cung điện, đã chấp nhận sự tham gia của người Mỹ để đổi lấy một khoản tiền khá lớn.

Khi Mohamed rời Jeddah đến Dhahran ở bờ biển miền đông, nằm bên vịnh Persia, cũng là lúc ARAMCO bắt đầu xây dựng các cơ sở khai thác. Mohamed xin vào làm một chân phụ hồ, và chỉ sau vài tháng đã thăng tiến lên chức quản đốc. Năm 1935, Mohamed rời ARAMCO để lập doanh nghiệp riêng.

Lúc bấy giờ, các hoàng thân Ả Rập Xê Út đang đua nhau xây dựng đền đài, cung điện. Và với kinh nghiệm của mình, Mohamed nhanh chóng giành về nhiều hợp đồng xây dựng cũng như thiết lập quan hệ vững chắc với hoàng gia, đặc biệt là với vua Abdul-Aziz và Abdullah Suleiman - Bộ trưởng Tài chính và là nhân vật quyền lực số 2 tại nước này.

Tới Thế chiến 2, Mỹ nhận thấy tầm quan trọng của Ả Rập Xê Út liên quan tới dầu lửa. Tháng 2.1945, Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt mời vua Abdul-Aziz lên chiến hạm USS Quincy ở Hồng Hải, đánh dấu quan hệ chính thức giữa hai quốc gia. Thế chiến 2 kết thúc, xuất khẩu dầu lửa tăng cao và quan hệ Mỹ - Ả Rập Xê Út càng được mở rộng. Cùng với nó là sự phất lên của Mohamed bin Laden và sau này là những quan hệ giữa tập đoàn Bin Laden với Mỹ.

Cho đến khi Mohamed chết vì tai nạn máy bay vào năm 1967, ông đã có cơ ngơi cả tỉ USD. Sau đó, người con trai trưởng Salem bin Laden tiếp nối vị trí đứng đầu tập đoàn. Salem tiếp tục duy trì quan hệ mật thiết với giới hoàng thân quốc thích Ả Rập Xê Út, kể cả vua Fahd, và có thể đã đóng vai trò quan trọng trong nguồn tiền và vũ khí mà Mỹ và Ả Rập Xê Út rót cho tổ chức của Osama bin Laden thời thập niên 1980 để chống lại Liên Xô ở Afghanistan.

Salem có một khu dinh thự lớn ở thành phố Orlando thuộc tiểu bang Florida của Mỹ và thường sử dụng nơi này để nghỉ ngơi, hội họp bạn bè. Trước khi chết vì tai nạn máy bay cá nhân trên đất Mỹ vào năm 1988, Salem được cho là từng tháp tùng vua Fahd tới thăm Nhà Trắng thời Tổng thống Ronald Reagan. Lúc bấy giờ, trong cuộc gặp với ngài Fahd, ông Reagan đã nói: “Chúng ta thờ cùng một Thượng đế”, trong mối liên hệ với cuộc chiến tại Afghanistan. Trong cuốn Bin Laden: Một gia đình Ả Rập…, tác giả Coll nhận định rằng lời lẽ của Tổng thống Reagan gợi ý rằng “ông đã xem một đoạn băng của Salem quay lại các hoạt động của Osama bin Laden ở Pakistan”.


Đỗ Hùng
(Báo Thanh Niên, 5.5.2011)

5 sai lầm của Mỹ sau sự kiện bin Laden

Ảnh: AFP

Theo báo Time, cách xử lý thông tin của chính quyền Mỹ trong 48 giờ đồng hồ sau sự kiện tiêu diệt Osama bin Laden đã mắc phải nhiều sai lầm.

Không ai có thể phủ nhận sự kịch tính và chất hành động trong chiến dịch của quân đội Mỹ cũng như khả năng tìm kiếm thông tin đáng nể của các cơ quan tình báo nước này, nhưng Time cho rằng chính quyền cũng đã mắc nhiều sai sót.

1. Không nói thẳng mọi việc. Liệu Bin Laden có vũ trang hay không? Liệu có người phụ nữ nào bị lấy ra làm bia đỡ đạn và đó là ai? Còn những ai bị giết ngoài mục tiêu chính? Thực ra chính quyền Mỹ là nguồn tin duy nhất về sự kiện này trong khoảng 24 giờ đồng hồ sau khi Bin Laden thiệt mạng, nhưng họ đã mắc những sai lầm khó tin. Cái giá phải trả là các phương tiện truyền thông trở nên nghi ngờ những tuyên bố của chính quyền, các đối thủ của Tổng thống Barack Obama thì ngay lập tức tận dụng cơ hội chỉ trích ông.

2. Không hề nhắc đến George W. Bush. Ngay cả khi Nhà Trắng tin rằng người tiền nhiệm của ông Obama không có vai trò gì trong kết cục của Bin Laden, sẽ là tốt hơn nhiều cho đoàn kết quốc gia và cho chính bản thân Obama nếu ông nói vài lời cảm ơn với vị tổng thống thứ 43. Lời mời của ông với Bush đến thăm khu Ground Zero vào ngày thứ Năm (đã bị từ chối) là một ý tưởng đúng đắn, nhưng quá muộn.

3. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về những bức ảnh. Quyết định có công bố những hình ảnh Bin Laden đã thiệt mạng hay không là không dễ dàng. Nhưng những tuyên bố mâu thuẫn nhau của chính quyền đã khiến công luận bực mình.

4. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về cuộc chiến ở Afghanistan. Sự kiện Bin Laden bị những người chỉ trích Obama coi là một trong những cái cớ có thể được chính quyền đưa ra để rút quân khỏi nước này. Một số trợ lý của ông Obama đã bày tỏ điều đó quá sớm và do đó, đưa ra tín hiệu sai lầm cũng như không bảo vệ được chính sách của tổng thống ở đó.

5. Không kiểm soát được cuộc tranh luận về Pakistan. Yêu cầu của bên lập pháp và giới truyền thông trong nước về sự thay đổi cơ bản trong mối quan hệ Mỹ-Pakistan là rất bức xúc, nhất là khi Bin Laden được phát hiện lẩn trốn ngay trên lãnh thổ nước này, ở một thị trấn tưởng như rất yên bình.


H.Minh
(Báo Tuổi Trẻ, 5.5.2011)

2.5.11

Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn

Đúng lúc Châu chuẩn bị nhảy lên ngồi trên yên Honda
thì một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cùng với
cột lửa khói vụt bốc lên cao từ chiếc Ford Falcon

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông - Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ.

Dưới đây là bài viết của ông Vũ Quang Hùng - người đã theo dõi, lên phương án tấn công và trực tiếp dự trận đánh này.

Vào cuộc

Trung tuần tháng 10 năm 1971, ngay sau khi nhận lệnh của cấp trên về mục tiêu cần diệt là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, việc đầu tiên là tôi điểm lại tất cả anh chị em trong đội do tôi (Vũ Quang Hùng, bí danh Ba Điệp) làm đội trưởng. Đội trinh sát võ trang mang bí số S1 hoạt động nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn thành lập chưa đầy một năm, gồm 11 người (kể cả tôi).

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam - Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông là thạc sĩ công pháp quốc tế đầu tiên của Việt Nam, tốt nghiệp tại Pháp, đang nắm chức Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, đồng thời là Chủ tịch Phong trào Cấp tiến, một tổ chức chính trị chống cộng.

Tôi quyết định tự mình trinh sát mục tiêu, đề ra phương án hành động. Mặt khác, tôi chuẩn bị vũ khí để thực hiện trận đánh.

Sau khoảng nửa tháng bám sát mục tiêu, tôi hầu như nắm chắc quy luật đi lại của G.33: Buổi sáng ra khỏi nhà hơi thất thường, có khi không tới chỗ làm. Nhưng hễ đã vô Học viện Quốc gia Hành chính là thế nào ông ta cũng rời Học viện lúc 11 giờ 45 để trở về nhà. Lộ trình từ Học viện về nhà cũng không bao giờ thay đổi: Theo đường Trần Quốc Toản (nay là 3.2), quẹo phải qua Cao Thắng, đến ngã tư Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) thì rẽ trái.

Tôi cũng nói thêm về việc bảo vệ ông Bông vào thời gian này. Ông di chuyển trên xe hơi Ford Falcon màu đen. Ngồi trên xe hơi luôn có một cận vệ. Chạy theo bảo vệ xe hơi của ông thoạt đầu có hai xe gắn máy, nhưng từ sau khi báo chí đăng tin ông có thể lên nắm chức thủ tướng, số xe gắn máy tăng lên từ ba tới bốn chiếc, mỗi xe đều chở đôi.

Đầu tháng 11.1971. Tôi trình bày vắn tắt ba phương án hành động rồi gửi về căn cứ đặt tại An Phước, Bến Tre. Đã đến lúc tìm người cụ thể bắt tay hành động. Tôi gặp Năm Tiến - đội phó S1, trao đổi tình hình và yêu cầu, hỏi anh ta có dám “vào trận” hay không, tuy vẫn chưa cho biết đối tượng cũng như phương án tấn công nhằm bảo đảm bí mật. Năm Tiến hăng hái nhận lời, nói Tư Xá, một trinh sát trong đội, cũng đang nóng lòng chờ xuất quân.

Cũng cần nói thêm, lúc này tôi đã có 6 trái lựu đạn “da láng”, thêm khẩu Colt 45. Cho nên, trong thư gửi về căn cứ tôi viết nếu chấp nhận phương án ba (ném lựu đạn, mìn DH vào xe của G.33 tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản) và chỉ cần gửi cho tôi trái DH khoảng 5kg.

Trên nhất trí duyệt phương án 3 đồng ý cả đề xuất nhân sự, hẹn tôi ngày, giờ cụ thể đón giao liên để nhận mìn định hướng.

Tình huống ngoài dự kiến

Tôi cũng tính toán thật chính xác thời gian khoảng từ khi tháo chốt đến khi lựu đạn nổ, thừa đủ thời gian cho trinh sát thoát thân. Vậy là trong óc tôi hình thành cách cấu tạo khối chất nổ: Vì trinh sát hóa trang làm sinh viên nên sẽ hết sức tiện lợi khi mang theo cặp da, trong đó chứa vừa lựu đạn, vừa trái DH. Tôi quyết định luôn “ngày D” để báo cáo về căn cứ: Đó là ngày 9.11.

Vừa nhận trái DH từ căn cứ gửi lên, tôi mua ngay một cặp da và cuộn dây kẽm, mang về gác trọ bắt tay vào việc. Ba lựu đạn da láng cùng trái DH gọn gàng nằm trong cặp. Tuy đã dùng nhiều sợi dây thun cột càng lựu đạn, tôi vẫn chỉ tháo bỏ chốt chính, và dự định khi trao cho Năm Tiến, tôi sẽ dặn kỹ anh ta chỉ kéo bỏ chốt phụ ngay trước giờ hành động. Riêng trái lựu đạn dùng làm “ngòi”, tôi chỉ thay chốt phụ bằng cọng dây kẽm, chốt chính vẫn giữ lại, và việc này cũng phải chờ đến phút chót.

Đến ngày 8 tôi mới nói với Năm Tiến đối tượng cần tấn công cũng như toàn bộ kế hoạch. Cặp da chứa chất nổ và khẩu Colt 45, tôi sẽ trao cho Năm Tiến vào 9 giờ sáng ngày hôm sau, vừa đủ thời gian để anh và Tư Xá kiểm tra kết cấu chất nổ và cách sử dụng. Tôi hẹn gặp Năm Tiến tại một quán cà phê, rồi mới đưa anh ta tới địa điểm cất giấu vũ khí. Tiếp theo Năm Tiến sẽ gặp Tư Xá trao đổi lại toàn bộ sự việc và liền đó hai người bắt tay làm nhiệm vụ… Nhưng thật bất ngờ, vào phút chót Năm Tiến báo tin Tư Xá xin rút, và cả anh ta cũng rút luôn vì không mấy tin tưởng thành công của trận đánh.

Lúc này lòng tôi rối bời. Các đồng chí trong căn cứ sẽ nghĩ sao? Kế hoạch đã lên nay không thực hiện, không lẽ chỉ là một ý nghĩ viển vông, lý thuyết suông? Nếu không nhanh chóng thực hiện phương án, qua ít ngày nữa, ông Bông lên nắm chức thủ tướng, khi ấy nếu muốn diệt mục tiêu chắc chắn phải trở lại từ đầu, kể cả khâu trinh sát.

Lúc này tôi không có ai để bàn bạc, tham khảo ý kiến, mà phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Cuối cùng tôi quyết định tiếp tục hành động. Vấn đề là tìm người thực hiện cụ thể.

Trong đội trinh sát S1 thực tế tôi chỉ còn lại Châu. Nguyên là sĩ quan quân đội, đương nhiên Châu quen với lựu đạn, súng. Và đây là điều hết sức thuận lợi nếu anh ta làm trinh sát số hai – người quăng chất nổ.

Còn trinh sát số một – người chạy xe gắn máy chở trinh sát ném lựu đạn? Phải thành thực nhận định, không ai thuận lợi bằng tôi: Biết rành cũng như nắm vững quy luật đi lại của đối tượng; và hơn hết, đã quen với con hẻm dẫn ra khỏi hiện trường. Vả lại, tôi cũng không thể tìm đâu ra người trong thời gian cấp bách.

Tôi lập tức tìm gặp Châu. Rút kinh nghiệm Năm Tiến, tôi chưa vội trao đổi cụ thể với Châu, mà chỉ hỏi anh dám tham gia một trận đánh tại nội thành có thể nguy hiểm đến tính mạng hay không? Tôi nhớ Châu chỉ hỏi lại ngoài anh ta ra còn ai cùng dự trận, và khi tôi trả lời còn một người nữa là tôi, anh đồng ý ngay. Tôi hẹn sáng ngày mai, lúc 10 giờ trưa, sẽ gặp lại anh giao nhiệm vụ và vũ khí cùng lúc, để thực hiện luôn vào buổi trưa cùng ngày…

Đúng 10 giờ sáng hôm sau, ngày 10.11.1971, tôi chở Châu đến nơi cất giấu vũ khí. Tại đây, tôi kể lại toàn bộ tình hình cho Châu nghe, từ chỉ thị của cấp trên, việc trinh sát đối tượng, phương án đánh, đến vũ khí sử dụng. Chỉ đến khi Châu hỏi “vậy vũ khí đâu?”, tôi mới lôi cặp da ra.

Tôi mở cặp da, để Châu tận mắt thấy trái mìn DH và 3 lựu đạn da láng, trong đó 2 đã được rút chốt chính và cột bằng dây thun, trái thứ 3 còn nguyên chốt chính trong khi chốt phụ đã được thay bằng cọng dây kẽm và đầu kia của dây kẽm xuyên qua cặp da, cột vào quai xách.

Còn khẩu Colt 45, tôi giắt vào bụng mình để Châu không bị trở ngại khi hành động và khi chạy, dặn vạn bất đắc dĩ Châu mới thọc tay vào bụng tôi, rút ra sử dụng.

11 giờ 15, tôi chở Châu lên đường. 11 giờ 25, tôi tấp xe vào quán nước đối diện Học viện. Còn Châu xách cặp làm bộ đứng chờ xe buýt tại trạm gần quán.

11 giờ 40, tôi trả tiền. Đúng 11 giờ 45, phía trong Học viện có bóng người chuyển động về hướng xe hơi. Dù cố trấn tĩnh, tim tôi vẫn đập rộn ràng. Tôi lập tức rời quán, lên Honda, nổ máy, chạy chầm chậm. Châu đã thấy tôi, bước đến sát mé đường. Ba-ri-e ngoài cổng Học viện hạ xuống, chiếc Ford Falcon lao ra rất nhanh, đến nỗi tôi vừa dừng xe đón Châu thì xe hơi đã quẹo ra đường Trần Quốc Toản; và khi Châu lên ngồi trên yên sau Honda thì xe hơi đã vượt qua xe tôi, 3 xe gắn máy chở đôi bám theo.

Không hiểu sao lúc này tôi lại tự nhiên hết hồi hộp mà thanh thản một cách kỳ lạ. Tôi tự nhủ không nên chạy sau xe Ford Falcon, vì có thể sẽ bị đám cận vệ phát hiện, nên tăng ga. Chiếc Honda 67 lướt rất êm, vừa tới ngã ba Cao Thắng đã qua mặt xe hơi.

Honda vẫn chạy trước xe hơi khoảng 5-6m, và cách ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản chừng 15m thì đèn tín hiệu giao thông chuyển sang màu đỏ. Tôi dừng Honda để Châu bước xuống, còn tôi vòng Honda qua bên kia đường, đầu xe nhắm ngay con hẻm, gài số một. Phía trước mặt tôi, hơi chếch về bên mặt, là tấm kiếng lớn của một xe hủ tíu-mì. Tôi quan sát phía sau qua tấm kiếng lớn này.

Châu vừa xuống xe thì chiếc Ford Falcon cũng vừa ngừng. Châu tấp vô lề, vòng ra phía sau xe hơi, quăng cặp da xuống ngay gầm xe bên phải, rồi nhanh như chớp, chạy băng qua đường. Đúng lúc Châu chuẩn bị nhảy lên ngồi trên yên Honda thì một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cùng với cột lửa khói vụt bốc lên cao từ chiếc Ford Falcon. Một làn hơi mạnh thổi tạt đến tận chỗ tôi vừa lúc Châu tót lên yên và tôi lập tức siết tay ga, nhả tay côn hết sức nhịp nhàng. Chiếc Honda như muốn cất cao đầu, lao nhanh vào con hẻm…

Khoảng nửa giờ sau ngồi trong gác trọ, nghe Đài Phát thanh Sài Gòn thông báo Giáo sư Bông đã bị ám sát, chết tại chỗ, tôi mới trấn tĩnh trở lại…

Vũ Quang Hùng
(Báo Dân Việt, tháng 4.2011)

Những dấu mốc hoạt động của Osama bin Laden

Osama bin Muhammad bin Awad bin Laden sinh năm 1957 (không xác định được ngày cụ thể) tại Riyadh, Arập Xêút, là con thứ 17 trong tổng số 52 người con của Muhammad Awad bin Laden, một người Yemen nhập cư, sau này trở thành tỷ phú ngành xây dựng.

Bố của bin Laden có bốn vợ, trong đó có một phụ nữ Syria, và bà này là người sinh ra trùm khủng bố quốc tế sau này.

Ngay từ khi còn trẻ và theo học tại trường Đại học King Abdul Aziz ở Jeddah, bin Laden đã bày tỏ quan điểm Hồi giáo bảo thủ và bắt đầu có xu hướng chuyển sang làm chính trị.

Một trong những người thầy của y, Abdullah Azzam, chính là người sáng lập tổ chức mujahedeen chống lại việc Liên Xô đổ quân vào Afghanistan năm 1979.

Nhờ việc sớm được thừa hưởng một phần gia sản khổng lồ của cha mình (ông này mất năm 1970) mà bin Laden đã trở thành một nhân vật cốt cán phụ trách tài chính trong tổ chức nói trên.

Năm 22 tuổi, y chuyển tới Afghanistan, gia nhập đội ngũ do Mỹ đào tạo để chống lại quân đội Xôviết, và kể từ đây, y chính thức bước vào con đường khủng bố, cho tới khi bị chính người Mỹ tiêu diệt vào ngày 30.4 vừa qua.
(Vietnam+)

Cận cảnh vị trí Osama bin Laden bị quân Mỹ giết


Lâu nay Mỹ tưởng rằng Osama bin Laden lẩn trốn trên khu vực biên giới giữa Pakistan và Afghanistan nên Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ra lệnh tiến hành nhiều vụ tuần tra bằng các máy bay không người lái để truy tìm dấu vết tại đó.

Song rốt cục, trùm khủng bố bị truy nã gắt gao này lại đàng hoàng sống ngay tại thành phố.

Chiến dịch của lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhằm vào bin Laden diễn ra tại một khu nhà ở thị trấn Abbottabad, chỉ cách thủ đô Islamabad của Pakistan khoảng 100km.

"Đây chính là điều mà các quan chức phương Tây lo ngại, rằng ông ta không trốn ở vùng biên giới xa xôi mà ngay tại các thành phố," phóng viên các vấn đề quốc tế Nic Robertson của đài CNN nói.

Abbottabad là nơi có các căn cứ quân đội của Pakistan, và thậm chí có cả một học viện quân sự.
(Vietnam+)